Vâng, tôi chính thức từ bỏ mạng xã hội. Hai tuần trước tôi đã xoá tài khoản Twitter và Instagram. Tôi đóng tài khoản Facebook nhưng lại mở lại do được nhờ đăng cáo phó cho một người bạn. Tuần này, tôi đã khoá hẳn Facebook luôn sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ.
Tôi không phải là người hay dùng mạng xã hội. Tôi và thằng em hay lôi điện thoại của nhau ra xem Screen Time mỗi đứa là bao nhiêu thì so với em tôi, tôi chẳng khác nào hạt muối bỏ bể—chỉ 2h25’ một tuần. Nó còn “khoe” với tôi rằng độ dài thông tin nó “kéo” trên Reddit bằng 11,000 trái chuối để kế nhau (!) Câu hỏi đặt ra là nếu tôi không dùng nhiều, tại sao tôi phải xoá?
Dù tôi là người biết chừng mực, những lúc rỗi rãi tôi lại muốn mở mạng xã hội lên xem. Nó là một thói quen. Một status của một người tôi “friend” xuất hiện làm tôi chú ý, dù cả hơn mười năm nay chưa một lần nói chuyện hay gặp mặt; một mẫu tin của tờ báo viết về cuộc biểu tình của những người lái xe tải kéo dọc toàn bộ Canada tôi không mấy quan tâm; bài viết của một “influencer” mà tôi béng mất vì sao tôi lại theo dõi; mãi một lúc tôi mới thấy được thông tin tôi cần tìm—cuộc sống hiện tại của những người tôi quan tâm. Đến lúc đấy, tôi chợt nhận ra: những người tôi quan tâm là những người tôi gần như nói chuyện, nhắn tin hằng ngày. Tại sao tôi phải lên mạng xã hội để tìm thông tin về họ trong khi họ chỉ cách tôi một tin nhắn, hoặc một cuộc gọi điện thoại?
Có lẽ Steve Jobs không ngờ rằng 15 năm sau khi iPhone lần đầu tiên xuất hiện, ý tưởng về chiếc điện thoại thông minh của ông đã bị bóp méo hoàn toàn. Jobs không tạo ra iPhone để làm cả thế giới “bị xao nhãng,” ông tạo ra iPhone vì ông chê những chiếc điện thoại thời đó xấu, không tối ưu trải nghiệm cho người dùng. Ông muốn tạo ra một chiếc điện thoại “cool” để mọi người có thể nhắn tin, gọi điện, nghe nhạc và lướt web. Chỉ thế thôi. Nhưng 15 năm sau, iPhone đã có 1,96 triệu ứng dụng, trở thành công cụ làm thay đổi hoàn toàn cuộc sống của chúng ta.
Tôi nhớ hồi còn nhỏ khi phải đi đâu đứng xếp hàng dài mua đồ. Nếu phải đợi lâu, tôi thường hay đem theo một quyển sách, hoặc rủ bạn đi cùng nói chuyện cho đỡ buồn, hoặc không thì đứng đó đá chân lên xuống suy nghĩ vẩn vơ—chơi với sự cô đơn. Có lẽ giờ đây, lần đầu tiên trong lịch sử loài người, chúng ta không cần phải đối mặt với sự cô đơn nữa. Mỗi khi không có việc gì làm, khi không có ai chơi cùng, khi đứng đợi xe buýt, khi chờ bạn trong quán cafe, khi không ngủ được, chúng ta lại lôi điện thoại ra lên mạng. Cứ như rằng khi chúng ta đăng nhập, cả thế giới bừng tỉnh chơi cùng ta.
Facebook, Twitter biết điều đó chứ. Zuckerberg tìm hiểu rất kỹ về hành vi con người và biết rằng thẩm sâu trong mỗi người chúng ta ai cũng muốn được người khác để ý, được “nhìn thấy.” Bắt đầu với ý tưởng kết nối mọi người, Zuckerberg không ngần ngại thay đổi thuật toán, làm chúng ta ngày càng nghiện mạng xã hội hơn, dành nhiều thời gian trên điện thoại. Nói cho cùng, tương lai của những loại hình công nghệ này đều phụ thuộc vào thời lượng chúng ta sử dụng. Năm 2020, Zuckerberg đã thu được 13.3 triệu đô doanh thu cho mỗi giờ người dùng đăng nhập và sử dụng Facebook. Việt Nam đứng thứ 7 trong danh sách các nước sử dụng Facebook với 68 triệu người dùng (70% dân số).
Là người muốn viết nhiều, tôi muốn được một mình với mớ suy nghĩ hỗn độn của tôi. Tôi muốn được cô đơn để tự do sáng tạo. Tôi muốn đi bộ một mình nhìn đường phố mà không có ham muốn chụp ảnh đăng Story, tôi muốn ngủ dậy nhìn lên trần nhà nghĩ vu vơ mà không có nhu cầu kiểm tra điện thoại xem có “like,” hay “comment” status của mình không. Tôi muốn được vò đầu, bứt tai xem tuần này sẽ viết gì trên blog, nói gì trong Nhật ký tuần vào Chủ nhật thay vì lên mạng lướt tin.
Khi tôi quyết định từ bỏ mạng xã hội, tôi rất băn khoăn cho tương lai của blog. Tôi có tạo một trang Page trên Facebook đăng tải bài viết trên blog và nếu tôi bỏ Facebook, làm sao mọi người biết đến blog của tôi? Quyết định của tôi là một rủi ro, nhưng tôi thật sự rất muốn thử. Có lẽ blog của tôi sẽ chẳng có ai biết đến, nhưng điều đó không sao cả, vì tôi sẽ chỉ viết cho chính tôi. Tôi đọc lại bài viết gợi nhớ cho tôi lý do tôi viết blog. Tôi chỉ cần một đọc giả thôi—đó là tôi. Tôi viết để tôi được lớn lên, để được viết ra những điều tôi suy nghĩ mà khó nói thành lời, viết để rèn luyện cho tôi thói quen đọc và nghiên cứu sâu. Nếu tôi dành 2h25’ một tuần đọc sách thay vì xem Facebook, tôi có thể đọc thêm 37 cuốn sách trong một năm. BA MƯƠI BẢY cuốn sách! Điều đó đồng nghĩa với 555 cuốn sách trong 15 năm qua nếu tôi chưa bao giờ biết đến mạng xã hội.
Bây giờ tôi chẳng có trang mạng xã hội nào cả, chỉ có blog và Nhật ký tuần. Nếu bạn thích đọc bài của tôi, thì hãy ghé blog, nếu muốn nói chuyện với tôi thì hãy gửi mail cho tôi, nếu thích nhận tin từ tôi thì hãy đăng ký Nhật ký tuần. Tôi cũng có một số nguyên tắc khi tiếp cận với ứng dụng xã hội và giải trí khác:
Tôi không có Youtube trên điện thoại. Tôi chỉ được xem Youtube trên TV khi giải trí, và trên máy tính khi cần nghiên cứu
Tôi không có tài khoản Zalo, TikTok (may quá!) và cũng không bao giờ có ý định đăng ký
Tôi chỉ được xem phim, series trên TV khi có bạn tôi xem cùng—trừ khi nó là phim tài liệu
Tôi không biết cuộc thử nghiệm này sẽ tác động thế nào với cuộc sống của tôi, nhưng tôi tin rằng rồi thì cũng chẳng ai để ý tôi còn dùng Facebook nữa không, vì ai cũng có hằng trăm “friend” ngoài kia. Còn với tôi? Tôi tin mình sẽ được nhiều hơn mất. Còn với Facebook? Tôi chắc rằng Zuckerberg sẽ buồn lắm. Buồn vì Facebook bớt đi 31.8 triệu đô doanh thu mỗi năm do mất một người sử dụng như tôi.
(Credit: Photo by camilo jimenez on Unsplash)